An Lộc Sơn đánh chiếm hai kinh Loạn_An_Sử

Đánh chiếm Lạc Dương

An Lộc Sơn có 15 vạn quân, nói phao lên là 20 vạn[13], ồ ạt tiến xuống phía nam. Khi tin Lộc Sơn làm phản truyền đến Trường An, ban đầu Đường Huyền Tông không tin, cho là tin đồn thất thiệt. Đến khi tin được xác nhận là đúng, cả Huyền Tông và nhiều quan lại trong triều đều hốt hoảng, mất bình tĩnh.

Dương Quốc Trung tự cho mình là đã dự kiến được điều đó, và tiếp tục dự đoán rằng quân phản sẽ chỉ hoạt động được chục ngày thì sẽ xảy ra chia rẽ nội bộ, Lộc Sơn sẽ bị thủ hạ giết. Đường Huyền Tông và các triều thần quen an nhàn, khi bất ngờ gặp tai biến có tâm lý cầu may, tin vào Dương Quốc Trung[13].

Nhưng quân An Lộc Sơn mạnh mẽ hơn nhiều so với sự dự liệu của nhà Đường. Trong không đầy 1 tháng, An Lộc Sơn đã kéo tới Linh Xương[14], vượt qua sông Hoàng Hà, gần như không gặp sự chống đối nào, liên tiếp hạ thành chiếm đất. Sau đó An Lộc Sơn đánh chiếm các trọng điểm Trần Lưu[15], Vinh Dương và tiến đánh Lạc Dương.

Đường Huyền Tông vội điều binh, cho Phong Thường Thanh làm Tiết độ sứ Phạm Dương (thay An Lộc Sơn), đến Lạc Dương mộ binh chống lại An Lộc Sơn. Mặt khác, Huyền Tông tự mộ thêm 5 vạn người ngựa, giao cho Tiết độ sứ An Tây là Cao Tiên Chi đóng giữ Thiểm châu; lại cử Quách Tử Nghi làm Tiết độ sứ Sóc Phương phòng thủ phía đông nam Hoàng Hà. Triều đình cần một người làm tổng quản quân đội ở Hà Bắc, Sơn Đông, Huyền Tông bèn trưng cầu các tướng đề cử. Quách Tử Nghi tiến cử Lý Quang Bật, Huyền Tông tiếp nhận ngay, phong Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông.

Phong Thường Thanh mộ được 6 vạn quân, nhưng họ đều là những người dân ở chợ búa chưa từng luyện tập và chưa quen đánh trận. Thường Thanh mang quân ra cửa Vũ Lao chặn đánh Lộc Sơn, nhưng bị đánh bại phải quay về giữ Lạc Dương. An Lộc Sơn kéo đến vây đánh Lạc Dương. Quân ô hợp của Thường Thanh không địch nổi, nhanh chóng bị đánh bại lần thứ hai. Lộc Sơn chiếm được đông đô Lạc Dương.

Phong Thường Thanh chạy tới Thiểm châu[16], hội quân với Cao Tiên Chi. An Lộc Sơn tiếp tục tiến quân đánh Thiểm châu, tiếp tục đánh bại hai tướng nhà Đường. Tiên Chi và Thường Thanh thua trận chạy về giữ ải Đồng Quan. Đường Huyền Tông nghe tin Thường Thanh thua trận bèn tước hết quan chức. Cao Tiên Chi lệnh cho Thường Thanh tuần tra giám sát các trại xung quanh.

Đường Huyền Tông sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Tiên Chi từ chối[17].

Đường Huyền Tông không đánh giá hết thực lực của quân An Lộc Sơn[11], nghe theo lời gièm của hoạn quan Biên Lệnh Thành rằng Cao Tiên Chi vô cớ bỏ thành giải tán quân và tự ý giảm khẩu phần của binh lính, quy trách nhiệm cho hai tướng để thua trận, hạ lệnh giết cả Phong Thường ThanhCao Tiên Chi, cử Kha Thư Hàn đang ốm[11] ra trấn thủ Đồng Quan.

Chiến sự ở Hà Bắc

Các thành nhà Đường bị vây hãm

An Lộc Sơn nhanh chóng đánh chiếm hầu hết đất đai Hà Bắc như gió cuốn, nhưng trong địa bàn mới chiếm được vẫn có một số tướng nhà Đường tận lực trung thành, kiên trì giữ thành thế thủ không đầu hàng, như Thái thú Bình Nguyên là Nhan Chân Khanh, Thái thú Thường Sơn là Nhan Cảo Khanh (hai anh em họ). Mười bảy quận Hà Bắc nghe theo các tướng họ Nhan, cùng nhau phản lại Lộc Sơn, trở lại quy thuận nhà Đường. An Lộc Sơn chỉ còn làm chủ các quận Hà Bắc là Ngư Dương, Phạm Dương, Bắc Bình, Mật Vân, Cấp Nghiệp, buộc phải ngưng đánh Đồng Quan, quay trở lại chinh chiến. Ông tự mình đóng quân tại Lạc Dương để điều binh các trấn.

Nhân đó, các tướng ở Hà Nam đang bị quân An Lộc Sơn chiếm như Thái thú Nam Dương là Lỗ Linh, thái thú Tuy Dương là Hứa Viễn, huyện lệnh Chân Nguyên là Trương Tuần cũng khởi binh chống lại An Lộc Sơn, chặn giữ con đường tiến xuống phía nam.

Trong các thành trì chống An Lộc Sơn trong vùng Lộc Sơn quản lý, quận Thường Sơn[18] bị hạ đầu tiên. Thái thú Nhan Cảo Khanh không chống nổi đại quân Sử Tư Minh, bị quân Yên bắt. Quân yên dụ hàng không được bèn giết Cảo Khanh.

An Lộc Sơn nôn nóng muốn làm hoàng đế[19] nên sang tháng 1 năm sau (756), tự xưng là Đại Yên hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Vũ. Ông phong con thứ là An Khánh Tự làm Tấn vương, Trương Thông Nho làm Trung thư lệnh, Cao Thượng và Nghiêm Trang làm Trung thư thị lang; sai An Khánh Tự làm tiên phong cùng Thôi Càn Hựu mang quân đi đánh Đồng Quan - cửa ngõ kinh thành Trường An. Lộc Sơn giao cho Sử Tư Minh lo việc đánh dẹp các thành trì còn chưa chiếm được ở Hà Bắc và phòng giữ căn cứ Phạm Dương.

Mũi ra quân của Quách, Lý từ Trường An

Tháng giêng năm 756, Lý Quang Bật mang 5000 quân tiến về phía đông, đánh phá Tỉnh Hình[20], quận Thường Sơn. Tướng Yên là Sử Tư Minh mang mấy vạn quân đến cứu viện, cắt đứt đường vận lương của quân Đường. Lý Quang Bật mang 500 cỗ xe đến Thạch Ấp[21] lấy lương, cùng 1000 quân đi hộ vệ. Trên đường băng qua vùng kiểm soát của Sử Tư Minh, Quang Bật sai quân xếp theo đội hình vuông, thần tốc hành quân, kết quả vượt qua vùng quân Yên. Khi Sử Tư Minh phát hiện thì Quang Bật đã đi khỏi. Có lương thảo đầy đủ, Lý Quang Bật tập hợp lực lượng đánh bại Tư Minh, giành lại hơn 10 huyện.

Tháng 4 năm 756, tướng Quách Tử Nghi nhà Đường giành lại được 2 quận Vân Trung[22] và Mã Ấp[23]. Sau đó Tử Nghi tiến quân đến Tỉnh Hình, phối hợp với Tiết độ sứ Hà Đông là Lý Quang Bật. Hai tướng cùng nhau đánh chiếm được 2 huyện Cửu Môn[24] và Cảo Thành do tướng của Yên là Sử Tư Minh cố thủ trên 40 ngày. Quân Đường chiếm được 9 huyện của quận Thường Sơn, đường rút lui của quân Yên bị uy hiếp.

Sử Tư Minh tuy thua nhưng có quân đông, khí thế còn mạnh. Khi Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ bèn mang quân đuổi theo. Quách Tử Nghi bèn sai 500 quân giương oai tiến lên phía bắc để đánh lừa Tư Minh. Tư Minh không biết là nghi binh, mang quân cấp tốc đuổi theo trong 3 ngày 3 đêm. Khi quân Yên đuổi tới huyện Hành Đường[25] thì người ngựa đã rất mệt mỏi, lúc đó mới phát hiện ra phía trước chỉ có 500 quân Đường, bèn quay trở lại sông Sa Hà[26] nghỉ ngơi. Quách Tử Nghi thừa lúc quân Yên mệt mỏi bèn mang quân đánh úp, giành thắng lợi lớn.

An Lộc Sơn nghe tin Tư Minh thua trận bèn sai Thái Hy Đức mang 2 vạn bộ binh và kỵ binh tới chi viện, lại sai Ngưu Đình Giới mang 1 vạn quân tới hỗ trợ Tư Minh. Tư Minh có 5 vạn quân trong tay[27].

Quách Tử Nghi không vội giao chiến, vẫn dùng chiến thuật trì hoãn khiến quân địch nản lòng. Ông mang quân lên phía bắc, dụ Tư Minh đuổi theo. Tư Minh được tăng viện, yên tâm mang quân đuổi. Tử Nghi đến đóng quân ở Hằng Dương[28], củng cố lại thành trì. Sử Tư Minh mang quân tới đánh thành không được. Hễ Tư Minh có ý định lui thì Quách Tử Nghi mang quân ra truy kích. Tư Minh quay trở lại đánh thì quân Đường lại rút vào thành cố thủ. Sử Tư Minh tiến lui đều không được, rất mệt mỏi. Lúc đó Quách Tử Nghi báo cho Lý Quang Bật tới trợ chiến, quân Đường có tổng cộng 10 vạn người, tổ chức tấn công quy mô vào quân Yên ở Gia Sơn, kết quả diệt hơn 4 vạn quân Yên, bắt sống 1000 người[29]. Sử Tư Minh thua to, bị ngã ngựa, may mắn trốn thoát, chạy về cố thủ ở Bác Lăng[30]. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật mang quân vây hãm Bác Lăng.

Trận Đồng Quan: quân Yên chiếm Trường An

Bài chi tiết: Trận Đồng Quan (756)

Tình cảnh quân Yên

Trận Gia Sơn đẩy quân Yên vào thế nguy khốn. Cánh quân Yên của An Lộc Sơn đang đánh Trường An bị Kha Thư Hàn án ngữ ở Đồng Quan, dùng chiến thuật phòng thủ không ra khiến quân Yên mắc kẹt không tiến lên được, phía sau thì Quách Tử NghiLý Quang Bật vây bọc. Nhiều tướng Yên đầu hàng nhà Đường, các trinh thám đi đưa thư cũng đều bị quân Đường bắt được. An Lộc Sơn chán nản định bàn cách bỏ Lạc Dương rút về căn cứ Phạm Dương và Bình Lư[29]. Ông tỏ ra ân hận vì đã dấy binh theo đề nghị của các thủ hạ, trách mắng thậm tệ Nghiêm Trang và Cao Thượng[31].

Để khắc phục tình hình trước mắt, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh buộc phải bố trí lại lực lượng quân Yên ở Hà Bắc: ông đưa quân chủ lực về bảo vệ con đường Hà Nam đến căn cứ Phạm Dương để phòng quân Đường phản kích vào đất căn bản này.

Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, còn hai cánh quân Lý, Quách sẽ tấn công căn cứ Phạm Dương của Lộc Sơn.

Mâu thuẫn mới trong nội bộ nhà Đường

Cùng lúc đó trong triều nhà Đường tiếp tục phát sinh mâu thuẫn mới. Ngay khi nhận lệnh ra trấn thủ Đồng Quan, Kha Thư Hàn đã vu cáo tướng người Hồ khác là An Tư Thuận tư thông với An Lộc Sơn, khiến Tư Thuận bị giết oan[32].

Khi hai bên giằng co ở Đồng Quan, tại Trường An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Kha Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung[33].

Cùng lúc Dương Quốc Trung cũng lo sợ Kha Thư Hàn mang đại quân về đối phó với ông, bèn xin Đường Huyền Tông mộ thêm binh lính phòng thủ cho hậu phương kinh thành. Huyền Tông nghe theo, Dương Quốc Trung bèn sai thủ hạ đi mộ 1 vạn quân, cho Đỗ Càn Vận tiếp quản, ra đóng ở Bá Thượng. Đội quân này tuy mang tiếng là bảo vệ kinh thành nhưng thực ra là bảo vệ Dương Quốc Trung khỏi sự thanh trừng của các tướng sĩ không cùng phe phái[33].

Kha Thư Hàn nghe tin Dương Quốc Trung đề phòng mình, bèn lấy lý do vì mặt trận chống Yên, đề nghị Huyền Tông điều động quân của Đỗ Cát Vận từ Bá Thượng tới nhập vào quân dưới quyền mình. Huyền Tông nghe theo. Kha Thư Hàn lấy quân rồi gọi Cát Vận đến giết chết[34].

Ngoài Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật ở Hà Bắc kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, bản thân Kha Thư Hàn cũng có chủ trương này. Ông đề nghị Đường Huyền Tông cho cố thủ chờ thời vì "An Lộc Sơn không được lòng dân". Thôi Càn Hựu không thể phát động tấn công, chỉ hằng ngày luyện quân ở ngoài chờ cơ hội.

Tuy nhiên, có người báo về kinh rằng quân Yên ở Đồng Quan không đầy 4000 người, toàn quân già yếu. Dương Quốc Trung cũng tâu Huyền Tông nên thúc quân Thư Hàn ra trận, ngoài mặt là để giành thắng lợi quyết định trước quân Yên, còn trên thực tế là bằng mọi cách tránh mũi dùi của Kha Thư Hàn chĩa vào mình. Đường Huyền Tông nóng lòng muốn thắng lợi, nghe lời Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, tấn công Thiểm châu, Lạc Dương[19]. Quyết sách đó của Đường Huyền Tông được các sử gia đánh giá là sai lầm chí mạng khiến nhà Đường đánh mất cơ hội xoay chuyển cục diện cuộc chiến một cách nhanh chóng[31].

Kha Thư Hàn bại trận

Ngày 4 tháng 6 năm 756, Kha Thư Hàn buộc phải mang quân ra đánh. Thôi Càn Hựu vốn đã mang quân trấn giữ hết các nơi hiểm yếu, chỉ để vài ngàn người ra trận. Kha Thư Hàn và Điền Lương Khâu trông thấy quân Yên ít nên yên tâm xuất chiến.

Tuy nhiên khi đại quân Kha Thư Hàn kéo ra thì rơi vào phục kích của Thôi Càn Hựu. Quân Đại Yên vùng dậy từ nơi ẩn náu quăng đá tới tấp xuống quân Đường. Quân Đường bị mắc trong chỗ chật hẹp không dùng vũ khí được, bị sát thương rất nhiều. Quân Yên lại nhân chiều gió thổi mạnh, đốt mấy chục xe cỏ khô cho gió thổi khói xuống. Quân Đường bị khói mù mịt không quan sát được, tự sát thương lẫn nhau khá nhiều[35].

Quân Đại Yên thừa cơ xông vào tới chém giết. Đội quân phía sau thấy quân phía trước bị thua nặng, xô nhau chạy hỗn loạn, bị chết hàng vạn người. Nhiều người trong quân Đường chen lấn xô xát nhau, bị rơi xuống sông Hoàng Hà. Bị quân Yên truy kích, một số quân sĩ buộc binh khí lại làm bè, dùng thương làm mái chèo, lội qua sông Hoàng Hà thoát thân.

Kết quả trận Đồng Quan, gần như toàn bộ 20 vạn quân Đường bị tiêu diệt, số quân thoát về bờ bắc không đầy 1/10[36]. Quân Đại Yên thắng lớn, ngày 8 tháng 6 năm 756, tiến vào chiếm Đồng Quan.

Kha Thư Hàn mang vài trăm quân chạy thoát vượt sông Hoàng Hà đến trạm Quan Tây, thu nhặt tàn quân, định chiếm lại Đồng Quan, nhưng bộ tướng người Phiên là Hỏa Bạt Quy Nhân đã phản Đường hàng Yên, mang quân bản bộ bắt ông đưa đến chỗ An Lộc Sơn.

Quân Yên thừa thắng ở Đồng Quan, ồ ạt tiến vào kinh thành Trường An. Đường Huyền Tông mang theo Dương Quý phi và thừa tướng Dương Quốc Trung hốt hoảng bỏ chạy về phía tây vào đất Thục[19].